Bài học kinh nghiệm từ Dự án REDD+ Plan Vivo xã Hiếu, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum: lồng ghép trong việc thực thi REDD+ tại Việt Nam
DALN Dự án thí điểm REDD+ xã Hiếu, huyện Kon Plong, tỉnh Kon Tum nhằm mục đích giảm mất rừng và suy thoái rừng ở các khu rừng cộng đồng trong phạm vi ranh giới truyền thống của ba cộng đồng dân tộc M’nâm. Dự án được thiết kế thực hiện bắt đầu từ năm 2018, sau một loạt các hoạt động khởi động như tham vấn cộng đồng, khảo sát/ước tính carbon, chuẩn bị tài liệu thiết kế dự án…
Cộng đồng thôn Dak Lieu xã Hiếu, huyện Kon Plong (ảnh Tiến Dũng)
Đối tượng hưởng lợi mục tiêu của dự án là 150 hộ gia đình các đồng bào dân tộc M’nâm với tổng dân số là 553 người, sinh sống tại 3 thôn Dak Lom, Dak Lieu, và Vi Chring. Nguồn thu nhập chính của các hộ gia đình tại các thôn chủ yếu đến từ canh tác lúa nước và các nguồn phụ thu khác từ chăn nuôi, trồng mì, chi trả dịch vụ môi trường rừng, hoạt động bảo vệ rừng. Tuy nhiên, các nguồn thu kể trên không giúp cộng đồng dân tộc thiểu số tại các thôn trên thoát nghèo. Như vậy, dự án thí điểm REDD+ xã Hiếu với mục đích giảm mất rừng và suy thoái rừng đồng thời trồng rừng với những cây có giá trị được kỳ vọng sẽ góp phần cải thiện thu nhập và sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư nơi đây.
Đường vào Thôn Dak Lom xã Hiếu, huyện Kon Plong (ảnh Tiến Dũng)
Dự án thí điểm sẽ được thực hiện thông qua chuỗi các hoạt động bao gồm: giao đất giao rừng cho 3 cộng đồng, cải thiện quản lý và quy hoạch sử dụng đất, tăng cường hiệu lực pháp luật và quản trị rừng, và thúc đẩy phát triển sinh kế bền vững, một phần thông qua trồng các loài cây đa mục đích.
Tuần tra bảo vệ rừng của Tổ bảo vệ rừng thôn (ảnh Tiến Dũng)
Theo Tiến sỹ Dương Thị Bích Ngọc - Trường Đại học Lâm nghiệp. Các lợi ích dự án, mục đích của dự án là giảm mất rừng và suy thoái rừng đồng thời góp phần cải thiện sinh kế người dân. Do vậy, các lợi ích dự án được xác định bao gồm: lợi ích Carbon, lợi ích sinh kế, lợi ích hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Năm dự án | Emissions (tCO2e) | Lượng phát thải giảm (tCO2e) | Lượng phát thải giảm – Rò rỉ (tCO2e) | ||
Kịch bản tham chiếu | Kịch bản dự án | Rò rỉ | |||
30 năm | 101.028,45 | 26.904,09 | 10.102,85 | 64.021,52 | 51.217,22 |
Trung bình | 3.367,62 | 896,80 | 336,76 | 2.134,05 | 1.707,24 |
Lợi ích Carbon (11$/ tCO2e): 1.707,24*11*=$18.779,64 |
TS. Dương Thị Bích Ngọc - Trường Đại học Lâm nghiệp (ảnh Sơn Lâm)
Dự án thí điểm REDD+ xã Hiếu nhằm mục đích giảm mất rừng và suy thoái rừng đồng thời cải thiện sinh kế cộng đồng người dân (sống phụ thuộc vào rừng) đã được triển khai từ tháng 1/2019 và đến nay đã thực hiện được một số hoạt động cơ bản như: giao đất giao rừng cho cộng đồng qua đó hạn chế nạn chặt phá rừng làm nương rẫy, tăng cường quản lý bảo vệ rừng tốt hơn thông qua các tổ tuần tra rừng và ban QLRCĐ, cải thiện sinh kế bằng việc tạo ra các nguồn thu lớn hơn từ trồng các cây có giá trị thương mại hơn. Thị trường Carbon tự nguyện, trong đó, bên mua chứng chỉ Carbon là Plan Vivo, đã vận hành tại vùng dự án.
Rừng cộng đồng thôn Vi Chring, xã Hiếu, huyện Kon Plong (ảnh Tiến Dũng)
Những "cánh cửa rừng” tại xã Hiếu được cộng đồng “đóng” lại
Các giai đoạn áp dụng của CORSIA của ICAO
Thị trường các bon nội địa: Thị trường các bon nội địa đã và đang được thành lập mạnh mẽ ở nhiều quốc gia và mang tính đa dạng cao. Tại Việt Nam đến nay đang trong giai đoạn xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường này, Năm 2012, Việt Nam trở thành thành viên của Chương trình sẵn sàng tham gia thị trường carbon quốc tế. Dự án “Chuẩn bị sẵn sàng cho xây dựng thị trường carbon tại Việt Nam (VNPMR)” được triển khai trong giai đoạn 2015 -2020 nhằm tăng cường năng lực xây dựng các công cụ thị trường, tạo điều kiện cho việc hình thành thị trường carbon ở Việt Nam. Dự án đã đề xuất chính sách, công cụ quản lý nhà nước về thị trường các-bon bao gồm cơ chế tạo tín chỉ, hệ thống giao dịch phát thải (ETS), phí/thuế các-bon và cơ chế chứng chỉ xanh. Dự án VNPMR đã cơ bản hoàn thành các nghiên cứu thí điểm cho ngành sản xuất thép và quản lý chất thải rắn. Đây là bước chuẩn bị quan trọng để Việt Nam tiến tới hình thành và phát triển thị trường carbon trong nước cũng như tham gia thị trường carbon thế giới. Lộ trình được đề xuất như sau:
Thị trường các bon bắt buộc: Thị trường này là mang tính chất bắt buộc nghĩa là các bên theo hành lang pháp lý buộc phải tham gia mà không có sự lựa chọn nào khác trong việc giảm thải các bon và được coi là thị trường các bon sớm nhất thế giới trong việc bao trùm toàn bộ các ngành kinh tế. Tính đến năm 2018, các ngành bắt buộc phải báo các mức phát thải và tham gia cơ chế thương mại này gồm ngành lâm nghiệp, ngành năng lượng (điện, nhiệt), giao thông, công nghiệp, tổng hợp khí nhà kính và chất thải. 51% tổng lượng khí thải tại đất nước này đã trong thị trường các bon bắt buộc, trong đó phần lớn khí thải từ nhiên liệu hoá thạch, quy trình sản xuất công nghiệp và chất thải. Quy trình hoạt động của hệ thống bắt buộc này là với mỗi đơn vị phát thải các ngành kinh tế có thể nhận được miễn phí, hoặc mua từ bên khác không dùng hết, hoặc mua thông qua đấu giá, hoặc có được từ việc giảm phát thải (ví dụ tích luỹ các bon từ rừng, thay đổi công nghệ thân thiện hơn với môi trường), hoặc mua từ nguồn bù đắp bên ngoài (trong nước hoặc quốc tế) (Đặc biệt từ năm 2018, phát thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp được nhà nước cấp miễn phí và bù đắp bởi ngành lâm nghiệp hay các hoạt động công nghiệp giảm phát thải khác chỉ áp dụng cho thị trường nội địa. Hay nói cách khác đảm bảo dòng tiền trong thương mại các ngành kinh tế này chỉ trong nội địa quốc gia (Catherine Leining and Suzi Kerr 2018).
Thị trường các bon tự nguyện: Theo báo cáo của Stephen Donofrio, Patrick Maguire et al. (2020), lịch sử giao dịch thị trường tự nguyện lượng các bon tính đến 2019 là 1.300 MtCO2e tương đương với giá trị 5,5 tỉ đô. Trong đó các loại dự án liên quan đến lâm nghiệp và sử dụng đất chiếm tỷ lệ cao nhất năm 2019, trong đó các dự án REDD+ với các hoạt động phổ biến liên quan đến quản lý rừng ở các nước phát triển chiếm ưu thế và phổ biến nhất, và giá cho mỗi đơn vị các bon trong loại dự án này cũng cao nhất.
Thực tế cho thấy thị trường các bon tự nguyện phát triển sôi động hơn thị trường bắt buộc rất nhiều, ví dụ năm 2008 thị trường các bon bắt buộc giao dịch là 119 tỉ đô, trong khi thị trường tự nguyện gấp gần 6 lần với 704 tỉ đô (Hamilton K, Sjardin M et al. 2009). Thị trường các bon tự nguyện đã và vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong thị trường các bon toàn cầu, đặc biệt là nhận thức về hậu quả biến đổi khí hậu ngày càng tăng, xu hướng nền kinh tế xanh ngày càng được quan tâm.
Khi tham gia vào thị trường các bon thì một trong những vấn đề quan trọng nhất là đáp ứng tiêu chuẩn để có thể bán được các bon. Hiện nay có một số tiêu chuẩn phổ biến (hay còn gọi là bên thứ ba trong giao dịch các bon) được áp dụng tuỳ vào bối cảnh của mỗi dự án mà họ áp dụng các tiêu chuẩn được yêu cầu khác nhau.
Một số tiêu chuẩn các bon trên thế giới
Tên tiêu chuẩn | Nội dung chính |
Kế hoạch Vivo (Plan Vivo) | Tập trung vào các dự án lâm nghiệp, nông nghiệp và sử dụng đất khác với trọng tâm là thúc đẩy sinh kế nông thôn và các dịch vụ hệ sinh thái. Các dự án của Plan Vivo hợp tác chặt chẽ với các hộ gia đình và cộng đồng nhỏ ở nông thôn và tiêu chuẩn nhấn mạnh thiết kế có sự tham gia, liên tục tham vấn các bên liên quan, sử dụng các loài bản địa và tăng cường đa dạng sinh học trong nhiều hình thức chi trả cho các chương trình dịch vụ hệ sinh thái - bao gồm hấp thụ carbon và giảm phát thải. |
Tiêu chuẩn các bon tự nguyên (Verified Carbon Standard – VCS)
| Chương trình bù đắp carbon chính thức do Verra phi lợi nhuận phát triển và điều hành. Nó chỉ tập trung vào các thuộc tính giảm thiểu KNK và không yêu cầu các dự án phải có thêm các lợi ích về môi trường hoặc xã hội. VCS được hỗ trợ rộng rãi bởi ngành bù đắp carbon (nhà phát triển dự án, người mua bù đắp lớn, người thẩm định và tư vấn dự án) và hoạt động tích cực trên toàn cầu. |
Tiêu chuẩn Vàng (Gold Standard - GS) | Tiêu chuẩn Vàng (GS) là một chương trình bù đắp carbon tự nguyện tập trung vào việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (SDGs) và đảm bảo rằng dự án đó mang lại lợi ích cho các cộng đồng lân cận của họ. GS có thể được áp dụng cho các dự án bù đắp tự nguyện và các dự án Cơ chế Phát triển Sạch (CDM). Tập trung vào các dự án bù đắp mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường lâu dài. |
Các chuyên gia của KfW cùng cán bộ BQL các Dự án Lâm nghiệp
Bài học cho các dự án REDD+ phạm vi nhỏ trong việc tiếp cận thị trường các bon quốc tế và nội địa:
Đáp ứng tiêu chuẩn các bon phổ biến nhất được các bên mua công nhận: Để tham gia thị trường quốc tế, giữa bên mua và bán thường nhờ một bên thứ ba đánh giá và cấp tín chỉ, do đó các dự án nên chọn các tiêu chuẩn các bon của bên thứ ba được các tổ chức mua tín chỉ các bon công nhận rộng rãi nhất. Ví dụ, theo đánh giá 20 chương trình đền bù các bon của Ecosystem Marketplace (2018) có 6 chương trình được đánh giá tốt nhất, trong đó có 3 chương trình là Native Energy, 3Degrees và myclimate có phạm vi chi trả cho các dự án, hoạt động liên quan đến REDD+. Với hai chương trình đầu thì sáu tiêu chuẩn các bon đều được công nhận bao gồm Gold Standard; Verified Carbon Standard; Climate Action Reserve; American Carbon Registry; Plan Vivo; The Climate, Community & Biodiversity Alliance; chương trình cuối myclimate thì chỉ công nhận ba tiêu chuẩn là Gold Standard; Plan Vivo; CDM. Như vậy, với các dự án REDD+ riêng lẻ cần ưu tiên lựa chọn các tiêu chuẩn các bon phổ biến này để tuân theo, để đảm bảo hàng hoá sản xuất ra (tín chỉ các bon) đáp ứng tiêu chí của nhiều bên mua nhất có thể. Như trường hợp của xã Hiếu là theo tiêu chuẩn Plan Vivo, một tiêu chuẩn các bon được công nhận bởi nhiều bên mua.
Thị trường các bon nội địa nên tiệm cận các tiêu chuẩn các bon được công nhận phổ biến trên thế giới: Tuy các bên mua khác nhau có các tiêu chuẩn khác nhau, nhưng thực tế cho thấy vẫn có những tiêu chuẩn các bon phổ biến và được nhiều bên mua tin tưởng. Việt Nam đang xây dựng thị trường các bon với lộ trình đã được đề xuất cụ thể, sẽ là khôn ngoan nếu chúng ta tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, hay nói cách khác tín chỉ các bon bán được trong nước thì cũng có thể bán được ra thị trường quốc tế. Điều này cũng giúp giảm chi phí cho khâu trung gian. Muốn vậy thì tiêu chuẩn các bon xây dựng trong nước cần đáp ứng (tiệm cận hay tương đương) tiêu chuẩn các bon thế giới, để quá trình giao dịch hay thương thảo mua bán được thuận lợi nhất.
Đối với thị trường nội địa: trong khi chờ đợi thị trường bắt buộc đi vào thực thi; thì thị trường các bon tự nguyên nên được khuyến khích mạnh mẽ ngay từ bây giờ. Nhà nước có thể thông qua các hình thức khuyến khích như khẳng định và ghi nhận nỗ lực giảm phát thải thông qua mua tín chỉ các bon như là một tiêu chí quan trọng trong xây dựng hình ảnh của các công ty hướng tới tiêu chí xanh, thân thiện với môi trường.
Đối với thị trường quốc tế: Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ các giấy tờ khi cần thiết của bên thứ ba, tạo điều kiện tối đa cho việc giao dịch được thuận lợi. Thực tế cho thấy cộng đồng khó mà trực tiếp tiếp cận được thị trường các bon mà thường có các tổ chức NGO hỗ trợ tiến trình này, do đó nhà nước cũng có thể đóng vai trò cầu nối, tạo điều kiện tối đa cho các tổ chức NGO trong việc giúp đỡ cộng đồng có tiềm năng thực thi các dự án REDD+ riêng lẻ.
Ông Đỗ Quang Tùng - Q.Trưởng Ban quản lý các dự án Lâm nghiệp (ảnh Tiến Dũng)
Dự án “Bảo vệ và quản lý tổng hợp các hệ sinh thái rừng thuộc các tỉnh Quảng Nam, Kon Tum và Gia Lai (KfW10)” được Chính phủ Cộng hoà Liên bang Đức thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW) tài trợ với tổng kinh phí viện trợ không hoàn lại là 08 triệu Euro, thời gian thực hiện từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2021. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Cơ quan chủ quản. Ban quản lý các dự án Lâm nghiệp và Sở NN&PTNT 03 tỉnh: Quảng Nam, Kon Tum và Gia Lai là Chủ dự án. Dự án KfW10 được triển khai với mục tiêu góp phần vào việc duy trì tính toàn vẹn của hệ sinh thái rừng và tính đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng tự nhiên ở các vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, đồng thời nâng cao tiêu chuẩn sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa phương. Dự án đã thành lập và giao rừng cho 72 Ban quản lý rừng cộng đồng thôn với tổng diện tích rừng tự nhiên sản xuất là trên 23.000ha để cộng đồng quản lý và bảo vệ. |
Có thể bạn quan tâm
Tin cũ hơn
- Hội thảo quốc tế: Đánh giá hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam trong bối cảnh quốc tế.
- Thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi “Dự án phục hồi và quản lý bền vững rừng phòng hộ”
- Trồng rừng tràm – Biện pháp giảm lũ tích cực
- Hội thảo khởi động Dự án "Tăng cường lâm nghiệp cộng đồng ở Việt Nam"
- PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG REDD+ QUỐC GIA
- Ngành lâm nghiệp và mục tiêu bền vững môi trường